[IELTS Listening 8.5, IELTS Speaking 8.0]-Tham khảo kinh nghiệm học và thi của anh Nguyễn Minh Hiếu

Thai boys splashing whit in a river.
Thai boys splashing whit in a river.

Chào cả nhà. Sau khi mình chia sẻ kinh nghiệm học và thi Viết, một số bạn có comment và gửi tin nhắn muốn mình chia sẻ về cách học và thi các phần khác nữa, nên ở bài viết này, mình xin trình bày về hai kỹ năng Nghe và Nói (đặc biệt là Nói) nhé. Mình thi 2 lần ở Hội đồng Anh và đều đc 8.5 Nghe và 8.0 Nói. Hi vọng bài viết có thể giúp ích phần nào cho những bạn đang dùi mài kinh sử, nhất là các sĩ tử sẽ “lên thớt” vào đợt 6/6 tới! smile emoticon(Tiện thể, mình cũng sẽ thi lại IELTS vào mùng 6/6 tức thứ 7 tuần này vì bảng điểm của mình vừa hết hạn. Lần này mình thi với IDP để “đổi gió” chút smile emoticon. Bạn nào cũng thi ở số 1 Liễu Giai thì điểm danh cái nhể grin emoticon. Chúng ta lập team rồi thi xong rủ nhau đi ăn trưa luôn nhé. Hehe). Let’s get started!

Có thể hơi vội vàng khi kết luận rằng sự chuẩn bị kiến thức nền quan trọng hơn việc học chiến thuật thi, nhưng thực sự đối mình, suy nghĩ này đã giúp ích cho mình rất nhiều trong các lĩnh vực của đời sống nói chung và trong việc học tiếng Anh nói riêng. Bài viết sau đây của mình được chia làm 2 phần chính để mọi người dễ theo dõi: 1-chuẩn bị kiến thức; 2-chiến thuật thi. Cả nhà chuẩn bị bắp rang bơ để “húp troạn” bài chia sẻ nha, hehe.

PHẦN I – CHUẨN BỊ KIẾN THỨC CHO PHẦN THI NGHE VÀ NÓI

Mình quan niệm muốn học tốt ngoại ngữ cần phải để tất cả các kỹ năng phát triển đồng đều. Do đó, mỗi khi làm bất cứ một hoạt động gì liên quan đến tiếng Anh (đọc báo, đọc sách, nghe đĩa…) mình đều kết hợp liệt ra những từ mới, tra từ điển Oxford – ghi ra nghĩa từ và các cụm (collocations) kèm theo, và đọc to các từ mới đó dựa vào bảng phiên âm quốc tế…Mình luôn mang theo 1 quyển sổ nhỏ bên mình mọi nơi, mọi lúc, để ghi ra những từ/cụm tâm đắc – ghi một cách ngấu nghiến vì sợ “nếu không ghi nó trôi mất.” smile emoticon. Một điểm nữa, mình là một fan trung thành của ngữ pháp tiếng Anh, và mình luôn cảm thấy vô cùng hứng thú mỗi khi làm bài tập về ngữ phá. (Cuốn sách gối đầu giường của mình là “Advanced Language Practice” nhé. Để tham khảo cách học sách này mọi người có thể xem lại bài viết của mình trên Hội nhé:https://www.facebook.com/groups/hoi.ielts.scholarshipplanet/695607200527631

Có lẽ cái sở thích “rởm đời” này được hình thành từ hai yếu tố: một là ở suy nghĩ và hai là ở thói quen của mình. Mình lúc nào cũng tâm niệm rằng ngữ pháp chẳng qua là được đúc ra từ cuộc sống chứ kô fải từ đâu xa lạ, nếu cứ ghét nó thì sẽ không thấy được cái hay ho tiềm ẩn của nó. Ngoài ra, mình cũng có thói quen khi nghe/đọc các bài nói/viết đều rất để ý, thậm chí săm soi từng dấu chấm, dấu phảy, và đặc biệt là đoán trước nội dung sẽ được đề cập tiếp theo (chẳng hạn như nghe/đọc đc “If I were in America now” thì 100% khả năng là vế sau sẽ có dạng tương lai trong quá khứ, kiểu “I would…”). Đối với mình, suy nghĩ và thói quen này luôn bổ trợ, bổ sung cho nhau, khiến mình lúc nào cũng vô cùng hứng thú với việc học, chứ không hề có cảm giác chả biết mình đang học cái gì, học cái này cái kia để làm gì, giúp mình mỗi khi nản lại có động lực để vượt qua và…học tiếp :))

Trái với nhiều người, mình không thích xem các bản tin (BBC, CNN..) và thường không có đủ kiên nhẫn ngồi bên màn hình căng tai để nghe quá 10 phút, vì nội dung của những bản tin này quá nhàm chán. Thay vào đó, mình download và nghe ngấu nghiến những show Mỹ mà mình thích, trong đó có “The Amazing Race,” “The Big Bang Theory,” “The Voice US,” “American Idol,” “X-Factor UK”, và “The Fresh Prince of Bel Air.” Như mình đã nói ở trên, nghe cái gì mình cũng cố note ra bằng được một vài chi tiết để bổ sung vào sổ từ. Mỗi khi xem một tập (episode) nào đó, mình thường tua đi tua lại 2-3 lần, ghi ra một số cụm/từ hay ho, và tra Oxford. Việc nghiền mấy show này, mình nghĩ, cũng giúp mình đáng kể trong việc “ngấm” cách cư xử của người bản xứ trong những tình huống của đời sống, cả khi trang trọng, khách sáo lẫn khi thân mật, suồng sã.

Mình chủ yếu là nghe nhiều chứ không nói nhiều (vì không có môi trường), nhưng một khi đã nói thì rất chỉn chu, đặc biệt là về phần phát âm. Lúc nào mình cũng cố gắng bắt chước lại người bản xứ một cách giống nhất, và tự hỏi bản thân “Liệu phát âm thế này người Mỹ/Anh có hiểu mình đang nói cái gì không nhỉ?” Chỗ nào không chắc chắn mình tra ngay Oxford để tìm ra cách phát âm đúng, dựa trên bảng phiên âm quốc tế. Đối với những từ phổ biến như caREER, deVElopment, PROduct, PROgram (n)…(những từ phổ biến mà lại hay bị đọc sai), mình suy nghĩ nếu không sửa thì sẽ sai mãi. Lúc nào mình cũng giữ tư duy mở, không bảo thủ và không ngại sửa sai.

Nói đến đây mình muốn chia sẻ một chút quan điểm về sách tham khảo nói chung và sách ngữ âm nói riêng. Đúng là có nhiều sách sẽ học được nhiều cái hay, cái mới, nhưng lắm thầy nhiều ma, nếu nhiều sách quá thì người học sẽ rất dễ đẽo cày giữa đường, phát sinh tâm lý lười, ngại, mua sách về rồi lại…để đấy. Do vậy, đối với những bạn dư dả thời gian (4-5 tháng trước khi thi), mình khuyên chân thành chỉ chọn 1-2 quyển sách tâm đắc thôi, và quyết tâm theo quyển đó từ đầu đến cuối một cách chuyên tâm.

Trên đây là khái quát về quá trình “học” nghe nói của mình. Nhìn chung mình thấy việc học tiếng Anh theo phương pháp tổng hợp các kỹ năng đã giúp mình đáng kể trong việc đắp xây tình iêu của mình đối với môn này cũng như khiến mình nhận ra sự hữu ích của nó không chỉ trong các kỳ thi (IELTS, TOEFL…) mà còn cả trong những tình huống đời sống nữa. Sang phần Hai của note, mình xin giành toàn bộ để nói về những kinh nghiệm của mình trong buổi thi NÓI ở Hội đồng Anh.

PHẦN HAI – CHINH PHỤC THỬ THÁCH

Đầu tiên, mình xin mạn phép chia sẻ với các bạn những gì mình cho là nên/không nên làm trong hôm thi Nói, dựa trên kinh nghiệm xương máu của bản thân:

LƯU Ý CHUNG

1. Nên gây ấn tượng với giám thị ngay từ đầu bằng cử chỉ và ngôn ngữ:

+ Nên giữ tư thế ngồi thoải mái từ đầu đến cuối
+ Nên giữ trao đổi bằng ánh mắt với giám thị (không nhìn chằm chằm)
+ Nên nói chậm rãi, từ tốn
+ Nên chèn một số câu/cụm từ “suồng sã” vào trong tất cả các câu nói (có thể không liên quan trực tiếp đến chủ đề thảo luận). VD: “pretty,” “amazing,” “absolutely,” “a little bit,” và những từ khác. Chẳng hạn “Honestly, that is pretty (=rather/very) difficult to tell.” “Absolutely. I have been a big fan of pop music for quite a long time.” hay “Kelly Clarkson is amazing, both as a singer and as a person.”)
+ Nên chú trọng vào việc phát âm các âm cuối của từ, ví dụ “wantED,” “needS”…
+ Không nên khua chân múa tay quá nhiều nếu không cần thiết
+ Không nên thêm âm gió, âm “s” lung tung…
+ Không nên dùng những từ hoa mỹ mà chính mình không chắc chắn. Ý nào khó diễn đạt thì nên tìm đến những cách diễn đạt gần hoặc tương đương để tránh những khoảng lặng hoặc những cái ậm ừ. VD: muốn diễn đạt ý “bận tối mắt tối mũi” thì thay vì tìm kiếm cách diễn đạt tương đương trong tiếng Anh mình hoàn toàn có thể nói: “Because of my hectic schedules, I don’t have much time to hang out with my friends.”
+ Không nên học tủ các cấu trúc mà phải hiểu thực sự các cấu trúc đó, khi nói phải cho thấy sự tự nhiên (Không nên dùng những khuôn mẫu sáo rỗng như “I am enthusiastic about pop music.” (tôi thích nhạc pop cực kỳ) mà đơn giản chỉ cần “I especially enjoy listening to pop music” hoặc “Pop music is a perfect way to unwind.”)

2. Trong quá trình phỏng vấn:

+ Cố gắng nghe thật kỹ và nắm bắt được ngay ý câu hỏi của người phỏng vấn, tránh tình trạng trả lời lạc đề (chắc sẽ bị trừ điểm nặng!)
+ Với mỗi câu hỏi các bạn chỉ nên trả lời bằng 1-2 câu văn, không rườm rà, lan man quá. VD: với câu “Where do you live and where do you come from?” đơn giản chúng ta chỉ cần nói “I am originally from Ho Chi Minh City. My family moved to Ha Noi when I was 6.” chứ ko nên thấy trúng tủ mà trả lời 1 tràng cảm nhận về 2 thành phố này khi ko được hỏi. Hoặc với câu “What is your house like?” thì cũng chỉ cần trả lời “It is a pretty standard apartment, with 4 bedrooms and 2 bathrooms. My house is not very spacious, but we have enough room for family gatherings and we can even invite guests over.” chứ ko/chưa nên trình bày gì về những kỷ niệm ở ngôi nhà.
+ Nhất quyết không được có những khoảng lặng dài. Nếu muốn có thời gian suy nghĩ thì có thể đưa vào một số câu đưa đẩy kiểu “Well, I haven’t thought of that yet,” “I mean,” hay “you know.” Nhưng không nên lạm dụng quá.
+ Khi nói, nên huy động tất cả các thời (đặc biệt ưu tiên thời quá khứ đơn và hiện tại tại hoàn thành), các cấu trúc giả định/điều kiện,…mà mình biết, nhằm cho thấy sự đa dạng trong việc vận dụng kiến thức ngữ pháp. Chẳng hạn thay vì nói “I have been in love with teaching for quite some time” (câu đơn), mình nên dùng “I used to hate teaching, yet over time I have developed a special liking for this noble profession.”
+ Không nên dùng những từ quá đao to búa lớn. Nếu dùng thì trước đó cũng phải biết chắc chắn sắc thái ý nghĩa (sense) của nó (dựa vào từ điển Oxford)
+ Cố gắng đọc chuẩn từng từ (đặt mình vào vị trí của người phỏng vấn xem liệu mình đọc đã đúng chưa, liệu người ta có hiểu ý mình nói không). VD: “ceMENT,” “CONtroversy,” “uniVERsity,” “caREER,”

LƯU Ý CHO TỪNG PHẦN ĐƠN LẺ

1. Phần Personal Interviews:

+ Trả lời súc tích (1-2 câu), rành mạch, nhưng không quá ngắn kiểu “Yes,” “No.”
+ Không dùng những cấu trúc “sáo” như “I am enthusiastic about…” “I have a penchant for” nếu cảm thấy không tự tin khi sử dụng.
+ Một số câu hỏi có thể dự đoán trước: Where do you come from? Tell me about your studies? What do you plan to do in 2-5-10 years? How do you go to school? Do you like reading? Which TV program do you like the most? What kind of food do you like? …

2. Phần Speech:

+ Ngay khi nhận được tờ đề, gạch chân key words để nói có trọng tâm hơn
+ Xác định ngay thời của động từ sẽ dùng xuyên suốt (Hôm mình thi được hỏi câu “Describe an object that you WOULD buy if you HAD enough money.” (điều kiện loại 2) —> dùng Giả định (Subjunctives) xuyên suốt!)
+ Gạch ý ngắn gọn nhưng phải thật khoa học. Dùng luôn gợi ý trong đề bài cho nhanh (Where, What, When…), nhưng không quá cứng nhắc bám sát vào các gợi ý đó – thiếu một hai ý (When/where…) cũng không sao. Tất cả những thông tin giới thiệu (nó là cái gì/nó như thế nào…) về điều định nói phải được co gọn lại trong khoảng 2 câu! Phần còn lại nên được giành cho việc nêu ý nghĩa/lý giải…về chủ đề đang thảo luận.
+ Nói rõ ràng, rành mạch (có thể nhìn xuống tờ giấy nếu muốn), dùng liên từ nếu cần.

3. Phần Discussion:

+ Không nên cố dự đoán đề từ task 2 —–> việc này sẽ tạo tâm lý hoang mang không cần thiết!
+ Điều quan trọng nhất ở phần này là bắt được ý hỏi của người phỏng vấn và trả lời theo! Phần này mình sẽ bị quay như chong chóng, nên khi giám thị hỏi mình phải cố gắng bật lại ngay để ghi điểm.
+ Đối với những câu hỏi đặc biệt (Wh-, How) nên trả lời dài một chút (tầm 3-4 câu), xoáy vào từ để hỏi (Wh-, How) để tránh lạc đề
+ Đối với những câu hỏi đoán, có thể trả lời ngắn gọn nhưng cũng không được dùng “Yes,” “No.” Nếu ù tai không nghe thấy gì có thể dùng trick sau: “Well, I suppose so, yeah.”/“Well, I suppose the answer to this question really depends on specific situations.”

Hi vọng những dòng trên của mình phần nào giúp các bạn ứng phó với bài thi nghe/nói của IELTS một cách dễ dàng hơn. Mình xin kết thúc bài chia sẻ này bằng một câu nói tuy không mới nhưng không hề lỗi thời mà mình vô cùng tâm đắc: “Không có phương pháp học tốt nhất giành cho tất cả mọi người, mà chỉ có phương pháp học hiệu quả nhất đối vời từng cá nhân cụ thể.” Các bạn cứ thử và theo chuyên tâm 1 phương pháp nào đó trước khi thử phương pháp mới và tự đúc kết những kinh nghiệm cho mình nhé.

Chúc các sĩ tử thi tốt! smile emoticon. Nếu thấy bài viết có ý nghĩa, mọi người cứ like hay share thoải mái nha!

P.S.: Để thấy sự áp dụng của tất cả những điều mình viết ở trên, mọi người có thể tham khảo video mình làm từ năm ngoái:https://www.youtube.com/watch?v=VCIiknckQts

Nguồn: Facebook – Hội luyện thi IELTS trên Scholarship Planet

Bài viết liên quan: Vài dòng chia sẻ về việc học và thi nói/viết của anh Nguyễn Minh Hiếu

Related Articles

Học Online cùng Premium